Miêu tả Axit_oxo

Nhìn chung, axít oxo là những ion đa nguyên tử mang một hiđrô phân cực mang điện dương, hiđrô này có thể tách khỏi axít oxo để trở thành một cation.

Theo lý thuyết phản ứng axít - bazơ nguyên thủy của Lavoisier, tất cả các loại axít đều phải chứa ôxi, được đặt tên theo từ tiếng Hy Lạp οξυς (oxys - có nghĩa là sắc bén, axít) và γεινομαι (geinomai, sản sinh). Về sau, người ta phát hiện ra rằng một số axít như axít clohiđric không bao hàm ôxi, chính vì vậy giới khoa học bắt đầu chia axít thành hai loại: axít có ôxi (axít oxo) và axít halihiđric.

Tất cả các axít oxo đều mang liên kết hiđrô mang tính axít với một nguyên tử ôxi, vì vậy độ bền liên kết hay độ dài liên kết không phải là một nhân tố quan trọng trong quyết định tính axít, as it is with binary nonmetal hydrides. Chính độ âm điện của nguyên tử trung tâm (E) và số lượng nguyên tử ôxi trong phân tử sẽ quyết định tính axít của nó (cụ thể số lượng ôxi liên kết với E càng nhiều thì tính axít càng tăng, và tương tự với độ âm điện của E).

Theo quy luật thứ hai của Pauling về pKa của axít oxo, một axít oxo có thể được viết dưới dạng OmE(OH)n và giá trị pKa đầu tiên của nó không phụ thuộc vào độ âm điện của E và n mà phụ thuộc vào m (8 với m =0, 3 với m =1, -2 với m=2 và <-10 với m=3).[1] Điều này cũng tương quan với số ôxi hóa của E, tức là khi số ôxi hóa càng cao thì tính axít càng mạnh.

Cụ thể, dựa vào quy tắc của Pauling chúng ta có thể ước lượng gần đúng giá trị pKa đầu tiên của axít oxo theo công thức: pKa = 8 - 5m. Ví dụ ta có thể ước tính pKa của HClO là 8 (thực nghiệm cho thấy là 7,2), của HClO2 là 3 (thực nghiệm là 2), của HClO3 là -2 (thực nghiệm -1) và HClO4 là -7 (thực nghiệm -8).

Axít imidic được tạo ra bởi việc thay thế các liên kết =O trong axít oxo bằng liên kết =NR.[2]

Liên quan